Các biện pháp đồng thời hướng vào gia đình và trường học
Đối với vị thành niên, thường là thuốc chống trầm cảm cộng với liệu pháp tâm lý
Đối với trẻ trước tuổi vị thành niên, liệu pháp tâm lý theo sau, nếu cần,dùng thuốc chống trầm cảm
Các biện pháp phù hợp với gia đình và nhà trường phải kèm theo việc điều trị trực tiếp cho trẻ để tiếp tục tăng cường hoạt động chức năng và cung cấp chỗ ở thích hợp cho việc giáo dục. Việc nằm viện ngắn có thể là cần thiết trong các cơn khủng hoảng cấp tính, đặc biệt khi xác định hành vi tự sát.
Đối với thanh thiếu niên (như người lớn), sự kết hợp của liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm thường có hiệu quả cao hơn phương thức sử dụng đơn lẻ. Đối với trẻ trước vị thành niên, tình hình rõ ràng hơn nhiều. Hầu hết các bác sĩ lâm sàng lựa chọn liệu pháp tâm lý ở trẻ nhỏ; tuy nhiên, thuốc có thể được sử dụng ở trẻ nhỏ (fluoxetine có thể được sử dụng ở trẻ em ≥ 8 năm), đặc biệt khi trầm cảm trầm trọng hoặc chưa đáp ứng với liệu pháp tâm lý.
Nghiên cứu dựa trên người trưởng thành đã cho thấy các thuốc chống trầm cảm hoạt động trên cả hệ thống serotonergic và adrenergic / dopaminergic có thể hiệu quả hơn một cách khiêm tốn; tuy nhiên, các loại thuốc như vậy (ví dụ, duloxetine, venlafaxine, mirtazapine, một số thuốc ba vòng, đặc biệt là clomipramine) cũng có khuynh hướng có nhiều tác dụng phụ hơn. Các loại thuốc này có thể đặc biệt hữu ích trong các trường hợp kháng thuốc. Các thuốc chống trầm cảm không thuốc hệ serotonergic như bupropion và desipramine cũng có thể được sử dụng cùng với SSRI để tăng hiệu quả.
Cũng như ở người lớn, sự tái phát là phổ biến. Trẻ em và vị thành niên nên được điều trị trong ít nhất 1 năm sau khi các triệu chứng đã hết. Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ em có trải qua ≥ 2 giai đoạn trầm cảm chủ yếu được điều trị vô thời hạn.
Bảng
Thuốc uống
Sử dụng
Liều bắt đầu *
Phạm vi liều
Nhận xét / Thận trọng†
Citalopram
OCD
trẻ em từ 7 tuổi
10 mg
10-40 mg / ngày
—
Duloxetine
GAD ở trẻ em 7-17 tuổi
30 mg
30-100 mg / ngày
—
Escitalopram
Trầm cảm chủ yếu ở
trẻ em dưới 7 tuổi
5 mg
5-20 mg / ngày
—
Fluoxetine‡
10 mg
10-60 mg / ngày
thời gian bán hủy
Fluvoxamine
25 mg (tăng liều nếu cần)
50-200 mg / ngày
Paroxetin‡
10 mg
10-60 mg / ngày
Tăng cân
Sertraline
OCD, GAD, lo lắng phân ly, lo lắng về xã hội ở trẻ em ≥ 6 tuổi
25 mg
25-200 mg / ngày
—
Venlafaxine, phóng thích ngay
Trầm cảm ở trẻ em từ 8 tuổi
12,5 mg
Liều 25-75 mg / ngày, 2 lần/ ngày hoặc 3 lần/ngày
Dữ liệu hạn chế về liều lượng và mối quan tâm về việc tăng hành vi tự sát, không hiệu quả như các loại thuốc khác, có thể vì đã sử dụng liều lượng thấp
Venlafaxine, phóng thích kéo dài
37,5 mg
37,5-225 mg / ngày
* Trừ khi có quy định khác, liều được dùng một lần / ngày. Liều khởi đầu chỉ tăng nếu cần. Phạm vi liều là gần đúng. Sự biến đổi giữa các cá nhân trong đáp ứng điều trị và tác dụng phụ là đáng kể. Bảng này không phải là một thay thế cho các thông tin kê toa đầy đủ.
†Tác dụng phụ về hành vi (ví dụ, giảm ức chế, kích động) là phổ biến nhưng thường từ nhẹ đến trung bình. Thông thường, giảm liều thuốc hoặc thay đổi một loại thuốc khác sẽ loại bỏ hoặc làm giảm các hiệu ứng này. Hiếm khi, những ảnh hưởng như vậy là nghiêm trọng (ví dụ, hung hăng, tăng việc tự sát). Các tác dụng phụ về hành vi là không đồng nhất và có thể xảy ra với bất kỳ thuốc chống trầm cảm và bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị. Do đó, trẻ em và vị thành niên uống các loại thuốc này phải được theo dõi chặt chẽ.
‡Fluoxetine và Paroxetine là các chất ức chế mạnh mẽ của các enzyme của gan tham gia chuyển hóa nhiều loại thuốc khác (ví dụ, thuốc chẹn beta, clonidin, lidocaine).
GAD = rối loạn lo âu lan tỏa; OCD = rối loạn ám ảnh xung động.
Nguy cơ tự tử và thuốc chống trầm cảm
Nguy cơ tự tử và điều trị bằng thuốc chống trầm cảm là một đề tài cần tranh luận và nghiên cứu (1). Năm 2004, FDA của Hoa Kỳ thực hiện phân tích meta gồm 23 thử nghiệm trước đó gồm 9 loại thuốc chống trầm cảm khác nhau (2). Mặc dù không có bệnh nhân nào tự tử trong các thử nghiệm này nhưng một lượng nhỏ phân tích thấy có sự tăng lên đáng kể ý tưởng tự sát được chú ý ở trẻ em và vị thành niên dùng thuốc chống trầm cảm (khoảng 4% so với khoảng 2%), dẫn đến cảnh báo trên tất cả các loại thuốc chống trầm cảm (ví dụ: , thuốc chống trầm cảm ba vòng, SSRIs, chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine như venlafaxine, thuốc chống trầm cảm tetracyclic như mirtazapine).
Các nghiên cứu quan sát và dịch tễ học (4, 5) đã không tìm thấy sự gia tăng tỷ lệ toan tử hoặc tự tử ở bệnh nhân uống thuốc chống trầm cảm. Ngoài ra, mặc dù giảm liều thuốc chống trầm cảm, tỷ lệ tự sát đã tăng lên.
Nói chung, mặc dù các thuốc chống trầm cảm có hiệu quả hạn chế ở trẻ em và vị thành niên, nhưng lợi ích có vẻ vượt trội hơn các nguy cơ. Cách tiếp cận tốt nhất dường như kết hợp điều trị bằng thuốc với liệu pháp tâm lý và giảm thiểu rủi ro bằng cách theo dõi chặt chẽ việc điều trị.
Trẻ hay vị thành niên nên được giám sát ở mức thích hợp.
Trị liệu tâm lý với các cuộc hẹn đều đặn nên được nằm trong kế hoạch điều trị.
Gía trị và rủi ro
Nguy cơ tự tử luôn là mối quan tâm của trẻ em và vị thành niên bị trầm cảm dù chúng có đang dùng thuốc chống trầm cảm hay không.