Phổ Biến 5/2024 # Thực Hư Về Việc Nọc Bọ Cạp Xanh Cuba Chữa Ung Thư # Top 7 Yêu Thích

Bọ cạp xanh Cuba (tên khoa học Rhopalurus Junceus) là một loài sinh vật đặc hữu trong 36 loại bọ cạp khác nhau được tìm thấy trên các đảo Cuba, Cộng hòa Dominica và một phần Trung Mỹ. Nó được gọi là “bọ cạp xanh” do tông màu xanh đặc biệt ở đuôi. Ngoài ra, nó còn được gọi là “bọ cạp đỏ” vì có thân màu đỏ sẫm. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba là một dịch chiết tự nhiên được cho rằng có tiềm năng chống ung thư và không gây độc tính trên người.

Rhopalurus junceus. Ảnh: internet

Vì vậy, trong khuôn khổ hạn hẹp, bài viết sẽ đưa ra một số thông tin nghiên cứu đã được công bố về nọc độc bọ cạp xanh Cuba trong điều trị ung thư, hy vọng độc giả sẽ tìm được những kiến thức bổ ích và có một cái nhìn khách quan hơn. Đặc biệt là có thể tìm được lời giải đáp cho “tin đồn”: Nọc độc bọ cạp xanh Cuba có phải là thuốc điều trị ung thư hay không?

Vài nét về nọc độc bọ cạp xanh Cuba

Bọ cạp là một trong những động vật lâu đời nhất trên trái đất với hơn 450 triệu năm tiến hóa, gồm khoảng 1750 loài khác nhau. Bọ cạp và nọc độc bọ cạp được sử dụng như một phương pháp y học cổ truyền cách đây hàng nghìn năm ở nhiều nước như Trung quốc, Ấn Độ và các nước châu Mỹ. Trong y học cổ truyền Việt Nam, bọ cạp nếu được dùng nguyên con được gọi là toàn yết, chỉ dùng đuôi được gọi là yết vĩ. Bọ cạp có thể được ngâm trong cồn dùng làm thuốc chữa đau cơ, xương rất hiệu quả, cũng có thể sắc thuốc để trị bệnh kinh giật, co quắp, méo miệng, bán thân bất toại, uốn ván…[1].

Nọc bọ cạp là hỗn hợp gồm các thành phần như: enzyme, peptide, nucleotide, lipid, mucoprotein, những biogenic amin và các thành phần chưa biết. Các enzyme có hoạt tính sinh học trong nọc độc bọ cạp bao gồm phospholipase A2 (PLA2), hyaluronidase, phosphatase và acetyl cholinesterases, proteolysis, trong đó PLA2 và các proteolysis được cho rằng góp phần chính vào việc gây độc tính cao trên động vật có vú. Ngoài ra, các polypeptide neurotoxin cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Các neurotoxin này gây tác dụng lên các kênh ion của tế bào thần kinh bị kích thích và qua đó tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, thần kinh thực vật, tim mạch và hô hấp [5].

Gần đây, nọc độc bọ cạp xanh Cuba – tên khoa học là Rhopalurus Junceus, thuộc họ Buthidae – một loại bọ cạp khá hiếm ở Cuba, đã được phát triển thành thuốc có công dụng giảm đau, giảm viêm và hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân ung thư ở Cuba. Năm 2004, cơ quan Sở hữu công nghiệp Cuba (OCPI) đã cấp bằng sáng chế nọc độc bọ cạp xanh Cuba cho công ty Labiofam, cho phép bộ Khoa học Công nghệ, viện Ung thư và xạ trị Cuba, Đại học Havana, Bệnh viện nhiệt đới Pedro Kouri tham gia nghiên cứu. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba được thu bằng cách sử dụng một dòng điện xung kích thích vào phần đuôi chích của bọ cạp để buộc bọ cạp tiết nọc.

Tuy đã được phát triển thành thuốc tại Cuba, song các nghiên cứu về thành phần có hoạt tính, tác dụng dược lý của nọc độc bọ cạp xanh Cuba rất hiếm được tìm thấy trên các tạp chí khoa học. Đã có một nghiên cứu đánh giá thành phần của nọc độc bọ cạp xanh Cuba, cho thấy trong thành phần của chúng có một số thành phần được cho rằng có hoạt tính như phospholipase, hyaluronidase, chất kháng viêm và một số peptide khác (chủ yếu là RjAa 12f) [6]. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba không gây độc cho chuột khi tiêm màng bụng với mức liều tới 200 µg/20g cân nặng. Song, nó gây chết côn trùng (loài dế Acheta domestica) với mức liều 10 µg mỗi con. Bên cạnh đó, nọc độc bọ cạp xanh cũng được chứng minh không chứa các enzyme có độc tính cao như Phospholipase A2 hay các enzyme phân giải protein như caseinolytic, gelatinolytic [4]. Đây có thể là nguyên nhân khiến nọc độc bọ cạp xanh Cuba có độc tính thấp hơn so với các loại bọ cạp khác. Ngoài ra, một nghiên cứu của Rodolfo Rodríguez-Ravelo và cộng sự cho thấy thành phần nọc độc bọ cạp xanh Cuba ở các vùng địa lý khác nhau trên Cuba bao gồm Moa, La Poa, Limonar, El Chote và Farallones tương tự nhau [12].

Theo cuốn sách “Venoms to Drugs: Venom as a Source for the Development of Human Therapeutics” của nhà xuất bản Hội hóa học Hoàng gia Anh, cho đến thời điểm tái bản cuốn sách năm 2024, chưa có thông tin nào về cơ chế kháng ung thư cũng như các thành phần trong nọc độc bọ cạp xanh Cuba kháng ung thư được công bố khoa học [9]. Và cho tới hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu toàn diện nào đánh giá cơ chế tác động lên tế bào ung thư của các thành phần có hoạt tính chiết từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba cũng như tiến hành phân lập xác định các thành phần này. Tương lai rất cần thêm những nghiên cứu sâu hơn về thành phần và hoạt tính sinh học để làm sáng tỏ tiềm năng kháng ung thư của nọc độc bọ cạp xanh Cuba.

Các nghiên cứu trên tế bào ung thư

Tìm kiếm nâng cao các dữ liệu về nọc độc bọ cạp xanh Cuba ảnh hưởng đến tế bào ung thư trên các công cụ tìm kiếm bài báo khoa học uy tín bao gồm Pubmed, Sciencedirect, Scientific Reports hay Google Scholar trong những thập niên gần đây cho thấy: Các nghiên cứu còn rất hạn chế, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào trên lâm sàng được tìm thấy.

Nghiên cứu năm 2013 của Díaz-García A và các cộng sự người Cuba đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nọc độc tế bào bọ cạp xanh Cuba trên các dòng ung thư khác nhau ở trong phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch chiết nọc độc bọ cạp xanh có độc tính đáng kể và chọn lọc trên dòng tế bào ung thư biểu mô, trong khi dịch chiết này không gây ảnh hưởng lên dòng tế bào bình thường. Các dòng tế bào ung thư được chứng minh nhạy cảm với nọc độc bọ cạp xanh Cuba bao gồm: dòng tế bào ung thư phổi (A549, NCI-H292), dòng tế bào ung thư vú (MDA-MB-231, MDA-MB-468) và dòng tế bào ung thư cổ tử cung (Hela). Nồng độ nọc độc bọ cạp xanh trong khoảng 0,1-0,75mg/ml có tác dụng làm giảm tỷ lệ sống sót của các tế bào này xuống 50% [2]. Nghiên cứu này được xem là bằng chứng khoa học đầu tiên chứng minh ảnh hưởng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba đến khả năng sống sót của tế bào ung thư của người ở mức độ trong phòng thí nghiệm, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo về nọc độc bọ cạp xanh Cuba ảnh hưởng đến tế bào ung thư trên người và động vật.

Tiếp nối nghiên cứu trên, năm 2024, nhóm nghiên cứu này đã tiếp tục đánh giá cụ thể hơn ảnh hưởng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba (được cung cấp bởi công ty Labiofam) trên dòng tế bào ung thư vú bộ ba âm tính (MDA-MB-231). Nghiên cứu cho thấy nọc độc bọ cạp xanh Cuba làm ức chế sự phát triển và điều hòa gen gây thúc đẩy chu trình tự chết tế bào ung thư vú [3]. Hai nghiên cứu này đều là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ít có giá trị lâm sàng, chưa thể khái quát sang người. Ngoài ra, cả hai nghiên cứu trên đều được tiến hành bởi nhóm nghiên cứu của Díaz-García A tại trung tâm nghiên cứu của công ty Labiofam (nơi sản xuất Vidatox đưa ra thị trường).

Thời điểm năm 2014, đã có một phân tích tổng quan hệ thống các nghiên cứu đánh giá về nọc độc của các loài bọ cạp khác nhau từ Trung Quốc, Ấn Độ và Châu Mỹ trên khả năng ức chế tế bào ung thư. Một số thành phần trong các loài bọ cạp này đã cho thấy có khả năng ức chế tế bào ung thư mức độ in vitro bao gồm BmK AGAP, BmKCT, Chlorotoxin, Iberiotoxin, Magatoxin, Charybdotoxin, Bengalin. Tuy nhiên, bài tổng quan này không nhắc đến loài bọ cạp xanh Cuba (Rhopalurus Junceus). Các nghiên cứu về nọc độc bọ cạp trong bài báo này cũng đều tiến hành trong phòng thí nghiệm, chưa được thực hiện trên lâm sàng. Bên cạnh đó, việc chiết xuất và xác định đặc tính, liều lượng của thành phần có hoạt tính sinh học chống ung thư từ nọc độc các loại bọ cạp vẫn chưa được rõ ràng, còn là một thách thức lớn cho các nhà khoa học [5].

Năm 2024, Catia Giovannini và cộng sự, một nhóm nhà khoa học nghiên cứu độc lập người Ý, đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác dụng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba trên mô hình chuột bị gây ung thư tế bào gan [7]. Kết quả nghiên cứu cho thấy Vidatox không có tác dụng ngăn sự phát triển tế bào ung thư mà còn gây gia tăng tiến triển và xâm lấn của khối u gan. Sau khi đăng trên Nature – một tập san khoa học rất uy tín, tựa đề đầu tiên của bài báo đã sửa từ “Venom from Cuban Blue Scorpion has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma” thành “Vidatox 30 CH has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma”. Nguyên nhân sự thay đổi này là do nọc độc bọ cạp xanh Cuba được sử dụng trong nghiên cứu chính là chế phẩm Vidatox 30CH của công ty Labiofam [8]. Mặc dù nghiên cứu này chỉ tiến hành trên chuột và chưa được đánh giá trên lâm sàng, song việc thận trọng khi sử dụng sản phẩm Vidatox trên bệnh nhân ung thư tế bào gan rất đáng cân nhắc.

Gần đây, Mohammadreza Moradi và cộng sự đã đánh giá tổng quan hệ thống về tác dụng kháng ung thư của các loại nọc độc bọ cạp nói chung, được công bố vào tháng 06/2024 [10]. Bằng cách tìm kiếm chuẩn theo hướng dẫn PRISMA (Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-Analyses ) – một hướng dẫn chuẩn về công cụ phân tích hệ thống để thu lại những bài phân tích chất lượng nhất trên các nguồn thông tin khoa học uy tín. Kết quả thu được khá khiêm tốn khi chỉ có 53 nghiên cứu được công bố, trong đó có 40 nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, 13 nghiên cứu trên động vật và chưa có nghiên cứu nào trên người. Trong 53 nghiên cứu này, chỉ có một nghiên cứu đánh giá nọc độc của loài bọ cạp xanh Cuba, chính là nghiên cứu của nhóm tác giả Díaz-García A, phòng nghiên cứu và phát triển của công ty Labiofam sản xuất Vidatox. Rõ ràng nhận thấy các nghiên cứu về nọc độc bọ cạp xanh Cuba rất ít, đặc biệt chưa có thử nghiệm nào cho thấy hiệu quả kháng ung thư trên động vật hay người được công bố khoa học.

Như vậy, kết quả tìm thấy các nghiên cứu của nọc độc bọ cạp xanh Cuba có hiệu quả trên tế bào ung thư còn rất ít, chỉ được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Chưa có nghiên cứu thực hiện trên động vật và người được công bố rộng rãi. Đáng chú ý hơn, đã có một nghiên cứu được công bố trên tạp chí nổi tiếng Nature cho thấy sự bất lợi của Vidatox – sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba, trên mô hình động vật bị gây ung thư gan. Từ nghiên cứu này, rất cần thiết khuyến cáo bệnh nhân ung thư gan không nên sử dụng nọc độc bọ cạp xanh Cuba để tránh những biến cố bất lợi đáng tiếc.

Sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba

Tuy nhiên, kết quả tìm kiếm trên các trang web chính thức của hai cơ quan FDA (https://www.fda.gov/) và EMA (https://www.ema.europa.eu/en) cho thấy cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA – Food and Drug Administration) cũng như cơ quan quản lý dược phẩm châu u (EMA – European Medicines Agency) đều chưa phê duyệt Vidatox là thuốc, mà Vidatox chỉ được lưu hành dưới dạng thuốc không chính thức hay thực phẩm chức năng tại các nước như Mỹ, Châu u, Trung Quốc, Ấn Độ hay một số nước châu Phi, châu Á khác.

Theo nhiều nguồn thông tin không chính thống trên internet, Vidatox đã được thử nghiệm trên hơn 10000 bệnh nhân ung thư và kết quả nghiên cứu cho thấy Vidatox cải thiện đáng kể chất lượng sống cũng như làm ngăn chặn sự tiến triển của khối u cho bệnh nhân ung thư

Đáng tiếc, các nghiên cứu này chỉ truyền miệng, đăng tải trên các trang web không chính thống, vẫn chưa được công bố trên bất cứ tập san khoa học quốc tế nào, chưa có nhóm nghiên cứu độc lập nào khác xác minh, do đó rất khó đánh giá giá trị khoa học của nghiên cứu này và kết quả nghiên cứu có thể chỉ thu được từ việc phỏng vấn bệnh nhân. Như vậy, bằng chứng khoa học chứng minh tác dụng sinh học của sản phẩm Vidatox vẫn đang là một câu hỏi. Chính công ty Labiofam cũng đã khuyến cáo Vidatox chỉ được xem như thuốc điều trị hỗ trợ, không phải là liệu pháp điều trị ung thư thực sự [11].

(A)                                                                                        (B)

Các sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba: (A) Vidatox Plus đăng ký dưới dạng thực phẩm chức năng; (B) Vidatox 30CH đăng ký dưới dạng thuốc hỗ trợ điều trị ung thư tại Cuba (Sản phẩm màu xanh dành riêng cho người dân Cuba). Nguồn: internet.

Tóm lại, Vidatox CH30 mới chỉ được cục Dược Cuba phê duyệt là thuốc hỗ trợ điều trị, không phải là liệu pháp điều trị bệnh ung thư và hiện tại vẫn chưa được FDA hay EMA (cơ quan bảo chứng uy tín nhất cho dược phẩm) phê duyệt là thuốc. Tại Việt Nam, Vidatox CH30 cũng chưa được phê duyệt là thuốc, chỉ mới được phê duyệt dạng thực phẩm chức năng Vidatox Plus.

Bàn luận chung

Trong tương lai, có thể sẽ có những nghiên cứu bổ sung về thành phần hoạt tính trong nọc độc bọ cạp xanh Cuba có ảnh hưởng đối với tế bào ung thư. Nhưng hiện tại, các nhà khoa học của Cuba cũng chưa thể xác minh các bằng chứng khoa học về việc nọc độc bọ cạp xanh Cuba có thể kháng ung thư để đưa ra một chế phẩm có thành phần và hiệu quả rõ ràng được FDA hay EMA phê duyệt.

Lời khuyên cho người tiêu dùng

Cần tham khảo ý kiến các cán bộ y tế phụ trách điều trị trực tiếp.

Thận trọng khi mua các sản phẩm thuốc trực tuyến hay từ các nguồn nước ngoài không quen thuộc. Nguồn gốc và xuất xứ các sản phẩm này không ai có thể xác minh được.

Các sản phẩm mua trên internet, không rõ nguồn gốc có thể là sản phẩm giả mạo, bất hợp pháp, thành phần không rõ ràng, không đáp ứng được hiệu quả, đặc biệt có thể ảnh hưởng tới sức khỏe người sử dụng.

Tránh mua các sản phẩm thuốc trôi nổi không rõ nguồn gốc.

Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Thị Uyên, ThS Dược, CTV Ban Khoa Học

Cố vấn khoa học:

Nguyễn Hồng Vũ, TS (Viện nghiên cứu City of Hope, California, Hoa Kỳ)

Lê Anh Phương, TS (ĐH Quốc gia Singapore, Singapore)

Lần cuối chỉnh sửa khoa học: 15/7/2024

Tài liệu tham khảo

1. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, pp. 964-965.

2. Diaz-Garcia A., Morier-Diaz L., et al. (2013), “In vitro anticancer effect of venom from Cuban scorpion Rhopalurus junceus against a panel of human cancer cell lines”, J Venom Res, 4, pp. 5-12.

3. Diaz-Garcia A., Ruiz-Fuentes J. L., et al. (2024), “Rhopalurus junceus scorpion venom induces apoptosis in the triple negative human breast cancer cell line MDA-MB-231”, J Venom Res, 8, pp. 9-13.

4. Diaz-Garcia A., Ruiz-Fuentes J. L., et al. (2024), “Enzymatic analysis of venom from Cuban scorpion Rhopalurus junceus”, J Venom Res, 6, pp. 11-8.

5. Ding J., Chua P. J., et al. (2014), “Scorpion venoms as a potential source of novel cancer therapeutic compounds”, Exp Biol Med (Maywood), 239(4), pp. 387-93.

6. Garcia-Gomez B. I., Coronas F. I., et al. (2011), “Biochemical and molecular characterization of the venom from the Cuban scorpion Rhopalurus junceus”, Toxicon, 58(1), pp. 18-27.

7. Giovannini C., Baglioni M., et al. (2024), “Venom from Cuban Blue Scorpion has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma”, Sci Rep, 7, pp. 44685.

8. Giovannini C., Baglioni M., et al. (2024), “Corrigendum: Vidatox 30 CH has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma”, Sci Rep, 7, pp. 46920.

9. Glenn chúng tôi (2024), Venoms to Drugs: Venom as a Source for the Development of Human Therapeutics, Royal Society of Chemistry, pp. 212.

10. Mohammadreza Moradi, Reza Solgi, et al. (2024), “Scorpion venom and its components as a new pharmaceutical approach to cancer treatment, A system review”, International Journal of Pharmaceutical Sciences and Research, 9(7), pp. 23-28.

11. Rodrigo Gutierrez, Sarah Marsh (2024, 15/12/2024), “Worth the sting: Cuba’s scorpion pain remedy”, Retrieved, from https://www.reuters.com/article/us-health-cancer-cuba-scorpion/worth-the-sting-cubas-scorpion-pain-remedy-idUSKBN1OD2GH.

12. Rodriguez-Ravelo R., Coronas F. I., et al. (2013), “The Cuban scorpion Rhopalurus junceus (Scorpiones, Buthidae): component variations in venom samples collected in different geographical areas”, J Venom Anim Toxins Incl Trop Dis, 19(1), pp. 13

‘;