Đề Xuất 5/2024 # Ung Thứ Vú Her2 Dương Tính Là Gì? # Top 3 Yêu Thích

Ung thư vú là loại ung thư được chẩn đoán thường xuyên nhất trên toàn thế giới và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở phụ nữ. Ở Singapore, ung thư vú là bệnh ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất trong hơn 40 năm qua và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư hàng đầu ảnh hưởng đến phụ nữ. Có hơn 7000 trường hợp mới được ghi nhận mỗi năm (từ 2006-2010) và đang có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ mắc bệnh tăng mạnh ở lứa tuổi sau 30 tuổi và lên đỉnh điểm ở lứa tuổi 60. Trong số các dân tộc ở Singapore, tỷ lệ mắc bệnh chuẩn hóa theo độ tuổi ở người Trung Quốc cao hơn so với các nhóm dân tộc khác.

Liệu tất cả các bệnh ung thư vú có hoạt động giống nhau không? Câu hỏi này được đặt ra bởi lẽ bác sĩ đã nhận thấy một số bệnh nhân xuất hiện khối u trong thời gian dài, đôi khi kéo dài đến vài năm trong khi ở những người khác, khối u dường như xuất hiện trong vài tháng ngay cả khi bệnh nhân thực hiện chụp X-quang khối u ngực gần đây và trả về kết quả âm tính. Đối với bệnh nhân ung thư vú tái phát, có một số người có xu hướng tiến triển tốt trong nhiều năm, ngược lại có những người khác tái phát chỉ sau một thời gian ngắn.

Với sự tiến bộ của các kỹ thuật phân tử (chẳng hạn như immunohistochemistry, microarray, công nghệ giải trình tự thế hệ mới), các nhà nghiên cứu bắt đầu cố gắng phân loại ung thư vú dựa trên các gen được biểu hiện trong ung thư. Hiểu biết về cấu trúc phân tử của ung thư vú đã làm thay đổi sự hiểu biết và các kiểm soát bệnh nhân của các bác sĩ chuyên khoa ung thư.

Ung thư vú dương tính – HER2

Một phân nhóm phụ của ung thư vú có ảnh hưởng mở rộng hoặc biểu hiện quá mức tới thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô của con người 2 (HER2, trước đây được gọi là HER2/neu, hoặc ERBB-2). Phân nhóm này bao gồm từ 18 đến 20% tỉ lệ ung thư vú ở người. Gen HER2 có trách nhiệm tạo ra các protein HER2. Các gen đột biến gây ung thư (oncogene) HER2 mã hóa cho các thụ thể trên màng tế bào. Trong những trường hợp bình thường, các thụ thể HER2 giúp kiểm soát cơ chế phát triển, phân chia và tự sửa chữa của tế bào vú. Ở một số bệnh ung thư vú, gen HER2 có thể trở nên bất thường và tạo ra quá nhiều bản sao của chính nó (khuếch đại gen HER2). Các gen HER2 khuếch đại chỉ huy các tế bào vú tạo ra quá nhiều thụ thể (biểu hiện quá mức protein HER2). Nó trở nên nhạy cảm hơn với các tín hiệu tăng trưởng và dẫn đến một số hậu quả khác.

Khi điều này xảy ra, các thụ thể HER2 biểu hiện quá mức thúc ép (thay vì từ từ kích thích) các tế bào vú phát triển và phân chia theo cách không được kiểm soát. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển của ung thư vú. Ung thư vú đã khuếch đại gen HER2 hoặc biểu hiện quá mức protein HER2 được mô tả trong báo cáo bệnh lý như là phân nhóm HER2 dương tính. Ung thư vú dương tính với HER2 có xu hướng phát triển nhanh hơn, có nhiều khả năng lây lan và tái phát (tái diễn) hơn so với các bệnh ung thư vú âm tính HER2. Nhưng ung thư vú dương tính HER2 có thể đáp ứng tốt với các liệu pháp điều trị nhắm mục tiêu được thiết kế để hoạt động chống lại các tế bào ung thư HER2

Thuốc trastuzumab (Herceptin) rất hiệu quả trong điều trị những bệnh nhân nữ có nồng độ biểu hiện ung thư vú HER2 cao. Loại thuốc này được sử dụng như một tác nhân duy nhất hoặc kết hợp cùng hóa trị gây độc tế bào trong ngăn chặn di căn HER2. Ngoài ra, một số thử nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng loại thuốc này cải thiện đáng kể thời gian sống trong điều trị bổ trợ ung thư vú HER2 dương tính.

Phân nhóm ung thư vú dương tính HER2 có sức đề kháng cao hơn (trong trường hợp thiếu đi liệu pháp nhắm mục tiêu HER2) khi áp dụng hóa trị liệu thông thường thường được sử dụng để điều trị ung thư vú như anthracyclines (ABác dượciamycin, Epirubicin) và taxanes (Paclitaxel, Docetaxel, vv).

Ung thư vú biểu hiện quá mức HER2 thường có khả năng chống lại liệu pháp nội tiết hoặc liệu pháp hormone cao hơn so với phân nhóm ung thư vú khác. Một số nghiên cứu sử dụng tamoxifen (SERM) hoặc chất ức chế aromatase cho thấy việc ngăn chặn cả tín hiệu hormone và HER2 rất quan trọng trong kiểm soát ung thư.

Cần lưu ý rằng tình trạng di căn não xảy ra phổ biến hơn ở ung thư vú biểu hiện quá mức HER2. Di căn não có thể xảy ra cho 30% – 40% phụ nữ mắc phải căn bệnh ung thư vú dương tính với HER2.

Chẩn đoán quá mức HER2

Các thử nghiệm cho biểu hiện HER2 đã được cải thiện kể từ các nhà khoa học phát hiện ra gen và sự tiến bộ trong tiện ích lâm sàng của thông tin để đưa ra quyết định lâm sàng và điều trị. Có nhiều cách để đo biểu hiện gen đột biến gây ung thư HER2.

Khuếch đại gen HER2 bằng kỹ thuật lai tại chỗ (ISH) – Kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (FISH), kỹ thuật lai tại chỗ có gắn chất màu (CISH), kỹ thuật lai tại chỗ tăng cường bạc (SISH), hoặc phản ứng chuỗi polymerase (PCR).

Biểu hiện quá mức sản phẩm protein HER2 – Western blotting, xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA), hoặc hóa mô miễn dịch (IHC).

Biểu hiện quá mức của RNA HER2 – Northern blotting hoặc đảo ngược phiên mã PCR (RT-PCR).

Một số tổ chức bệnh lý và ung thư lâm sàng đã được đề nghị thực hành tốt nhất để thử nghiệm biểu hiện HER2. Điều này ảnh hưởng đến quá trình điều trị cho bệnh nhân bởi lẽ việc lựa chọn liệu pháp rất khác nhau. Ngoài ra, bệnh nhân không nên bị tước đi lợi ích lớn trong các thử nghiệm Herceptin bổ trợ vì vấn đề vật mẫu hoặc xét nghiệm. Tất nhiên rằng ở quốc gia khác nhau trên thế giới, chi phí và tính khả dụng kiểm tra, chất lượng và tính thống nhất của các bài kiểm tra có thể khác nhau. Chúng tôi may mắn được làm việc với các phòng thí nghiệm cung cấp thử nghiệm gen HER2 có uy tín và được cấp phép ở Singapore.

Tác giả:

Bác sĩ Peter AngCử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore)Thạc sĩ Y khoa/MMed (Nội khoa)Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh)Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)