Xu Hướng 5/2024 # Chuyên Đề Tuần 2: Ung Thư Niệu Đạo # Top 4 Yêu Thích

Ung thư niệu đạo là một dạng ung thư hiếm gặp ở niệu đạo của cả nam lẫn nữ, chiếm khoảng 1-2% các bệnh ung thư đừong tiết niệu. Ung thư niệu đạo ảnh hửong đến nữ giới nhiều hơn nam giới. Cho đến nay, số ngừoi đuợc chẩn đoán mắc bệnh này hàng năm vẫn ổn định. Hầu hết bệnh nhân luôn có những triệu chứng điển hình, một số ít lại không.

Niệu đạo là một ống rỗng cho phép nước tiểu đi từ các cơ quan lưu trữ, bàng quang đến khi sẵn sàng được thải ra ngoài cơ thể. Ở nam, niệu đạo dài khoảng 20cm, đi qua tuyến tiền liệt và dương vật trước khi mở ra ngoài ở đầu dương vật. Ở phụ nữ, niệu đạo dài khoảng 4cm và mở ra ngoài ngay phía trên cửa âm đạo

Niệu đạo gồm các biểu mô đừong niệu đạo. Ở cả nam và nữ có một số tuyến nằm dọc theo chều dài niệu đạo. Một mạng lưới hỗ trợ gồm mô liên kết, sợi chun, sợi cơ và mạch máu bao quanh niệu đạo

Phân loại:

Có nhiều loại ung thư khác nhau bắt nguồn từ các tế bào dòng niệu đạo. Những bệnh ung thư được đặt tên theo các tế bào trở thành ác tính (tế bào bị ung thư):

Ung thư tế bào biểu mô lát tầng là phổ biến nhất. Nó hình thành trong các tế bào ở một phần niệu đạo gần bàng quang của phụ nữ, và trong niêm mạc của niệu đạo dương vật ở nam giới

Ung thư tế bào biểu mô chuyển tiếp hình thành ở khu vực gần đường mở vào niệu đạo ở phụ nữ, và ở phần niệu đạo đi qua tuyến tiền liệt ở nam giới

Ung thư biểu mô tuyến hình thành trong các tuyến dọc niệu đạo ở cả 2 giới

Nguyên nhân

Nguyên nhân chính xác vẫn chưa được biết. Tuy nhiên có những yếu tố nguy cơ sau đây:

Tiền căn ung thư bàng quang, ung thư niệu đạo đã được điều trị

Nhiễm virus HPV

Có điều kiện cho viêm và nhiễm trùng mãn tính như ệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), nhiễm trùng đường tiết nệu (UTIs)

Trên 60 tuổi

Là phụ nữ da trắng

Sinh thiết mô là cần thiết để chẩn đoán ung thư niệu đạo. Rất khó để thực hiện quy trình này khi gây tê tại chỗ, vì vậy bệnh nhân thường được hẹn trở lại để làm sinh thiết. Khi gây mê hoàn toàn hoặc gây tê khu vực, các bác sĩ niệu khoa sẽ sinh thiết bất kỳ khu vực khả nghi được xác định. Một số bệnh nhân cũng có thể yêu cầu một kỹ thuật sinh thiết như đâm kim qua da hoặc âm đạo vào phần niệu đạo tăng trưởng. Các mô sinh thiết sau đó được gửi đến các bác sĩ giải phẫu bệnh để kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định chẩn đoán. Trước khi bệnh nhân tỉnh dậy từ gây mê, bác sĩ niệu khoa sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng để xác định mức độ khu trú của khối u.

Khi ung thư niệu đạo được tìm thấy, mức độ của bệnh được phân loại dựa trên mức độ xâm nhập của các khối u vào các mô xung quanh niệu đạo. Kiểm tra sẽ được thực hiện để tìm ra nếu các tế bào ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể. CT scan bụng và xương chậu có thể được thực hiện để kiểm tra các hạch bạch huyết thu thập từ hệ thống thải nước từ niệu đạo. MRI có thể được thực hiện để kiểm tra mức độ khu trú của khối u. Chụp X-quang ngực thường được thực hiện để đảm bảo rằng khối u vẫn chưa lan đến phổi, và bệnh nhân có thể yêu cầu scan xương để tìm ung thư di căn xương. Nếu ung thư niệu đạo được phân loại như ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, bệnh nhân sẽ được làm các cận lâm sang kiểm tra màng thận và niệu quản để đảm bảo không có các mặt khác của ung thư.

Ở nam giới, một phần của niệu đạo gần bàng quang và tuyến tiền liệt có nhiều khả năng có nguồn gốc từ các tế bào dòng đường tiết niệu, trong khi một phần của niệu đạo bên trong dương vật có nhiều khả năng có nguồn gốc từ các tế bào giống như da (tế bào biểu mô lát tầng), sự khác biệt này có thể ảnh hưởng tới cách điều trị bệnh.

Các xét nghiệm và thủ tục sau đây có thể được sử dụng:

Khám lâm sàng và tiền căn: Kiểm tra dấu hiệu sức khỏe, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, như khối u hay bất cứ điều gì khác có vẻ bất thường. Tiền căn những thói quen của bệnh nhân và bệnh tật trong quá khứ và phương pháp điều trị cũng sẽ được thực hiện.

Phòng xét nghiệm thực hiện kiểm tra mẫu mô, máu, nước tiểu, hoặc các chất khác trong cơ thể. Các xét nghiệm này giúp chẩn đoán bệnh, kế hoạch và kiểm tra điều trị, hoặc theo dõi bệnh.

Xét nghiệm nước tiểu dưới kính hiển vi để kiểm tra các tế bào bất thường.

Phân tích nước tiểu: Một thử nghiệm để kiểm tra màu sắc của nước tiểu và thành phần của nó, chẳng hạn như đường, máu, protein, và các tế bào bạch cầu.

Thăm khám trực tràng: Bác sĩ hoặc y tá sẽ đưa một ngón tay đeo găng bôi trơn vào phần dưới của trực tràng để kiểm tra xem có khối u hay bất cứ gì khác thường. Thủ tục này có thể được thực hiện trong khi bệnh nhân đang được gây mê.

Kiểm tra vùng chậu: thăm khám âm đạo, cổ tử cung, tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng, và trực tràng. Bác sĩ sẽ đưa một hoặc y tá đưa một hoặc hai ngón của một bàn tay đã được đeo găng và bôi trơn vào âm đạo và đặt bàn tay khác trong vùng bụng dưới để cảm nhận kích thước, hình dạng và vị trí của tử cung và buồng trứng. Mỏ vịt cũng được đưa vào âm đạo và các bác sĩ hoặc y tá nhìn vào âm đạo và cổ tử cung để tìm dấu hiệu của bệnh. Điều này có thể được thực hiện trong khi bệnh nhân đang được gây mê.

Soi bàng quang: Một thủ tục để nhìn vào bên trong niệu đạo và bàng quang để kiểm tra các khu vực bất thường. Một ống nội soi được đưa vào thông qua niệu đạo vào bàng quang. Mẫu mô có thể được làm sinh thiết.

Sinh thiết: Việc loại bỏ các tế bào hoặc mô từ niệu đạo, bàng quang, và đôi khi cả tuyến tiền liệt, vì vậy chúng có thể được xem dưới kính hiển vi bởi bác sĩ giải phẫu bệnh để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh ung thư.

Có những lựa chọn điều trị cho tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán với bệnh ung thư niệu đạo. Các tùy chọn này có thể được chia thành ba loại: phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.

Tiên luợng:

Mặc dù điều trị tích cực bằng hóa trị, xạ trị và phẫu thuật, sự tái phát của ung thư niệu đạo sau điều trị không phải là không phổ biến. Vì lý do này, bệnh nhân với tình trạng này đòi hỏi theo dõi lâu dài. Theo dõi thường đòi hỏi có kiểm tra tổng quát, sinh hóa, CT scan và X quang ngực mỗi 6 tháng đến 1 năm. Chỉ với phát hiện sớm tái phát và điều trị kịp thời, thích hợp những trường hợp như vậy mới có thể kéo dài sự sống

Tiên lượng (cơ hội phục hồi) phụ thuộc vào những điều sau đây:

Các giai đoạn và kích thước của ung thư (cho dù đó là khu trú hay đã di căn)

Trường hợp ung thư được hình thành đầu tiên trong niệu đạo.

Thể trạng của bệnh nhân.

Ung thư đã được chẩn đoán hoặc đã tái phát trở lại.

Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau đây:

Các giai đoạn của ung thư và nơi nó đang ở trong niệu đạo.

Quan hệ tình dục của bệnh nhân và thể trạng.

Ung thư đã được chẩn đoán hoặc đã tái phát.

(Nguồn:

http://www.webmd.com/cancer/tc/urethral-cancer-treatment-patient-information-nci-pdq-general-information-about-urethral-cancer

http://www.urologyhealth.org/urology/index.cfm?article=65 )