Phổ Biến 4/2024 # Chữa Điều Trị U Vú Ác Tính # Top 7 Yêu Thích

U vú ác tính hay còn gọi là K vú, ung thư vú. Câu hỏi khiến nhiều người mong tìm được đáp án đó chính là u vú ác tính có chữa được không? Cách chữa điều trị như thế nào?

U vú ác tính là gì?

U vú ác tính thực chất là ung thư vú hay còn gọi là K vú và có thể bắt gặp ở mọi lứa tuổi đặc biệt là độ tuổi trên 30. Bệnh phát triển âm thầm khi mới hình thành biểu hiện của bệnh ung thư vú là rất ít gần như không có triệu chứng điển hình khiến người bệnh chủ quan không để ý tới.

Khác với u vú lành tính, u vú ác tính thường không gây đau chỉ đến khi khối u phát triển lớn di căn sang các cơ quan khác thì biểu hiện bệnh mới rõ ràng. Người bệnh có thể sờ thấy u ác nếu khối u nằm ngay sát bên ngoài da, nếu khối u nằm sâu hoặc ăn sâu vào xương sườn thì người bệnh khó phát hiện hơn. Khối u vú ác tính có thể gây ra các hiện tượng đau lưng, đau vai, gáy nếu khối u ăn sâu vào xương sườn gây ảnh hưởng tới các bộ phận này. Tuy nhiên sau một thời gian, khi khối u vú ác tính đủ lớn, khối u sẽ bắt đầu gây các hiện tượng mới cho bệnh nhân như các hiện tượng biến dạng khối vú, thay đổi màu da, thay đổi núm vú hoặc có dịch là tiết ra từ vú. Sở dĩ khối u ác tính gây nguy hiểm cho người bệnh là do nguyên nhân khối u xâm lấn các tế bào khác gây cản trở sự vận chuyển dinh dưỡng, đào thải chất độc của các mô, tuyến. Hơn nữa các tế bào ung thư có hiện tượng liên kết lỏng lẻo, dễ di căn tới nhiều bộ phận khác trong cơ thể gây khó khăn cho việc điều trị, pháu thuật dứt điểm bệnh.

Đối tượng mắc u vú ác tính ngoài độ tuổi trên 30 thì yếu tố độc hại được coi như nguyên nhân chính gây bệnh. Nguy cơ mắc bệnh càng cao đối với người thường xuyên tiếp xúc với các nguyên nhân xúc tác gây nên khối u như các chất phóng xạ, tia cực tím, hóa chất…

U vú ác tính có chữa được không?

U vú ác tính nếu được phát hiện sớm đặc biệt nếu phát hiện khi mới ở giai đoạn sớm, tức là bắt đầu có xâm lấn nhỏ (nhỏ hơn 2cm mà không lây lan đến các hạch bạch huyết cổ) thì tỷ lệ sống được ghi nhận là trên 90% nếu được điều trị tích cực. Đặc biệt tinh thần lạc quan vui vẻ có ảnh hưởng rất lớn đến việc điều trị bệnh.

Theo chúng tôi Trần Đình Hà (Phó Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai ) cho biết tỷ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn 2 được chữa khỏi, chiếm 60%. Đặc biệt, những bệnh nhân nếu được phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, khả năng chữa khỏi bệnh lên tới 90%. “Đây là tín hiệu rất mừng nhờ những tiến bộ trong công tác khám sàng lọc và những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú hiện nay, đặc biệt là điều trị theo từng cá thể”.

Tuy nhiên nếu bệnh nhân phát hiện u vú ác tính ở giai đoạn muộn (giai đoạn 3,4) thì tỷ lệ tử vong tăng cao ở mức trên 60%. Như vậy u vú ác tính được phát hiện càng sớm càng tăng khả năng sống cho người bệnh. Việc có chữa được hay không còn tùy thuộc và giai đoạn tiến triển của bệnh.

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ vú: cắt bỏ đi toàn bộ tuyến vú và vét sạch hạch ở nách.

Phẫu thuật bảo tồn vú: hay còn gọi là bóc tách khối u, cắt bỏ 1 phần của vú. Trong phẫu thuật bảo tồn vú, chỉ cắt bỏ mô ung thư và một phần mô xung quanh cũng như các hạch trong hệ bạch huyết. Phạm vi phẫu thuật cắt vú phụ thuộc vào kích thước và vị trí của khối u và các yếu tố khác. Sau phẫu thuật bảo tồn vú, bệnh nhân nhất thiết phải xạ trị.

Xạ trị

Là phương pháp dùng năng lượng cao của tia phóng xạ X tiêu diệt các tế bào ung thư cùng với việc làm khối u co nhỏ lại. Có thể bắn tia phóng xạ từ máy móc vào cơ thể ( liệu pháp xạ trị ngoài) hoặc là dùng các ống nhỏ làm bằng chất dẻo đưa những chất liệu săn sinh ra tia phóng xạ (các đồng vị phóng xạ) vào những vùng có tế bào ung thư (liệu pháp xạ trị trong).

Xạ trị rất quan trọng sau khi tiến hành phẫu thuật bảo tồn vú, vì trong phẫu thuật bảo tồn, phần lớn các mô vú được giữ nguyên vẹn. Việc xạ trị sẽ làm giảm khả năng tái phát ung thư vú.

Xạ trị thành ngực không cần cho các trường hợp đã phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú triệt căn, khối u nhỏ, diện cắt âm tính, hạch nách âm tính.

Bổ trợ toàn thân

Sau khi phẫu thuật, điều trị bổ trợ toàn thân cần được xem xét. Quyết định điều trị dựa trên cân nhắc giữa lợi ích giảm được tái phát, di căn với nguy cơ về độc tính của điều trị, tác động của các bệnh kèm theo.

Điều trị hóa chất: Đây là cách mà dùng thuốc để điều trị ung thư theo một pháp đồ điều trị đã được định hình sẵn. Các loại thuốc có thể đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch máu. Điều trị hóa chất được áp dụng tốt nhất đối với các bệnh nhân dưới 70 tuổi. Hoặc các khối u nhỏ, đường kính bé hơn hơn 0.5cm, và không có di căn hạch nách.

Điều trị nội tiết: Điều trị nội tiết có thể áo dụng cho hầu hết bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính hoặc không rõ. Thời gian dùng thuốc hợp lý là 5 năm, bắt đầu sau khi đã hoàn tất điều trị hóa chất.

Lưu ý sau điều trị

Đối với các giai đoạn I-III sau khi tiến hành điều trị cần:

Khám lâm sàng 4-6 tháng/ lần trong 5 năm, sau đó 1 năm/lần

Chụp X-quang tuyến vú đối bên 1 năm/ lần. Đối với điều trị bảo tồn (cắt thùy + xạ trị), chụp X-quang tuyến vú 6-12 tháng/ lần.

Các bệnh nhân sử dụng thuốc điều trị nội tiết, khám phụ khoa 1 năm/ lần nếu còn tử cung.

Trong chẩn đoán xác định ung thư vú, khám lâm sàng, chụp X-quang tuyến vú và xét nghiệm tế bào học là ba yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng.