Đề Xuất 5/2024 # Sàng Lọc Lao Và Lao Tiềm Ẩn # Top 3 Yêu Thích

Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính trên thế giới năm 2024 có khoảng 10,4 triệu người nhiễm lao, trong đó 1,8 triệu người tử vong. Hiện thế giới và Việt Nam gánh nặng bệnh lao vẫn là một vấn đề của sức khỏe cộng đồng.

Về mặt lâm sàng có thể chia những bệnh nhân nhiễm vi khuẩn lao thành hai nhóm chính: lao tiềm ẩn và lao hoạt động (hay lao tiến triển) [ 1], [ 2].

Theo định nghĩa của WHO lao tiềm ẩn là tình trạng đáp ứng miễn dịch dai dẳng của cơ thể với kháng nguyên của Mycobacterium tuberculosis mà không biểu hiện triệu chứng lâm sàng của lao tiến triển. Hiện tại chưa có phương pháp xét nghiệm trực tiếp để xác định tình trạng nhiễm vi khuẩn lao tiềm ẩn này. Mặc dù không có triệu chứng nhưng nó có nguy cơ chuyển sang thể hoạt động và gây lây truyền trong cộng đồng. Vì thế việc phòng tránh lao tiềm ẩn chuyển sang lao tiến triển cần các biện pháp chẩn đoán và điều trị dự phòng [ 2], [ 3].

Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), các đối tượng cần được tầm soát lao như:

Người có tiền sử tiếp xúc với bệnh nhân lao hoạt động

Người ở các nước có tỷ lệ bệnh lao lưu hành cao (trong đó có Việt Nam)

Người sống và làm việc trong các nhà dưỡng lão….

Không phải bệnh nhân nhiễm lao tiềm ẩn nào cũng tiến triển thành lao hoạt động, nhưng 1 số đối tượng có nguy cơ cao tiến triển thành lao hoạt động hơn thì theo khuyến cáo của WHO nên được sàng lọc và điều trị lao một cách có hệ thống, đặc biệt ở:

Bệnh nhân HIV

Người tiếp xúc với bệnh nhân lao phổi hoạt động

Bệnh nhân có chỉ định điều trị bằng thuốc kháng TNF-α

Bệnh nhân lọc máu

Bệnh nhân chuẩn bị ghép tạng hoặc ghép tủy

Bệnh nhân bị bệnh bụi phổi [1].

Theo Viện sức khỏe và Thử nghiệm lâm sàng Vương quốc Anh (NICE) thì các bệnh nhân mắc bệnh ác tính về huyết học, đang hóa trị hay sau cắt dạ dày do mọi nguyên nhân là những đối tượng có nguy cơ dễ mắc bệnh lao tiến triển [ 4].

Mới đây trong một phân tích gộp được thực hiện bởi Claudia C. Dobler và cộng sự đăng trên tạp chí hội hô hấp Châu Âu tháng 8/2024, dựa trên phân tích 13 nghiên cứu với hơn 900.000 bệnh nhân cho thấy tỉ lệ mắc bệnh lao (incidence rate ratio – IRR) ở bệnh nhân ung thư tăng lên 2,6 lần so với bệnh nhân không mắc ung thư. Tỷ lệ này còn gia tăng hơn ở bệnh nhân ung thư máu và đặc biệt ở trẻ em, nó tăng lên đến 17 lần, cũng chính từ nghiên cứu này, các tác giả đã nhấn mạnh việc tầm soát lao trên bệnh nhân ung thư [ 5].

Sàng lọc lao tiềm ẩn có thể sử dụng phản ứng Mantoux hoặc xét nghiệm đo lượng interferon gamma (IGRA). Ở những nước đang phát triển, thu nhập thấp, phản ứng Mantoux có thể dùng để tầm soát mà không nhất thiết bắt buộc xét nghiệm IGRA [ 1], [ 6].

Cần hỏi bệnh và thăm khám kỹ các triệu chứng bệnh lao trước khi sàng lọc lao tiềm ẩn. Chụp X quang ngực nếu nghi ngờ lao tiến triển. Bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng và bất thường trên Xquang ngực cần được làm xét nghiệm thăm dò kỹ hơn để chẩn đoán lao tiến triển.

Isoniazid 6 tháng

Isoniazid 9 tháng

Rifapentin phối hợp Isoniazid hàng tuần 3 tháng

Isoniazid phối hợp Rifampicin 3 – 4 tháng

Rifampicin 3 – 4 tháng

Theo khuyến cáo của WHO và CDC, những người sau đây cần làm xét nghiệm sàng lọc hay tầm soát lao tiềm ẩn:

Người nhiễm HIV

Người tiếp xúc với bệnh nhân lao phổi

Bệnh nhân chuẩn bị điều trị thuốc kháng TNF-α

Bệnh nhân lọc máu

Bệnh nhân chuẩn bị ghép tạng hoặc ghép tủy: cần tiến hành sàng lọc trong vòng 30 ngày trước khi ghép.

Bệnh bụi phổi

Người ở vùng dịch tễ có tỷ lệ lưu hành bệnh lao cao, trong đó có Việt Nam

III. Sự khác nhau giữa lao tiềm ẩn và lao hoạt động

Quy trình sàng lọc và điều trị lao tiềm ẩn

Các triệu chứng lâm sàng nghi lao gồm

Kết quả đọc sau 48 đến 72 giờ. Đo đường kính nốt sẩn theo chiều ngang của cẳng tay (vuông góc với trục dọc cẳng tay), tính bằng đơn vị mm [ 3].

Ưu điểm

≥ 5mm được coi là dương tính (+) ở các đối tượng sau

≥ 10mm được coi là dương tính (+) ở các đối tượng sau

≥ 15mm được coi là dương tính (+) ở các đối tượng sau

Người nhiễm HIV

Người mới tiếp xúc với bệnh nhân lao phổi

Người có tổn thương xơ cũ trên phim X – quang phổi, có tiền sử lao cũ

Bệnh nhân ghép tạng

Người sống ở các nước có tỷ lệ lưu hành lao cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh)

Nghiện chích ma túy mà xét nghiệm HIV âm tính

Làm việc ở nơi có nguy cơ mắc lao cao như: Nhân viên phòng xét nghiệm lao…

Trẻ sơ sinh, trẻ em dưới 4 tuổi và trẻ vị thành niên tiếp xúc với người lớn trong nhóm nguy cơ cao

Tất cả các đối tượng không có nguy cơ mắc lao

Nhược điểm

Dương tính giả: nhiễm vi khuẩn lao không điển hình, tiêm vaccine BCG trước đó, xét nghiệm sai kỹ thuật, đánh giá sai kết quả, thuốc thử tuberculin không đảm bảo chất lượng.

Âm tính giả: giảm phản ứng da do suy giảm miễn dịch, mới nhiễm lao (dưới 8 tuần), tiền sử nhiễm lao trước đó quá lâu, trẻ dưới 6 tháng, mới tiêm vaccine sống, lao tiến triển quá nặng, đang mắc một số bệnh do virus(sởi, thủy đậu), sai kỹ thuật, đánh giá sai kết quả.

Hiện tượng Booster (hiện tượng Booster có phản ứng tối đa khi làm test Mantoux lần 2 sau test lần đầu 1 – 5 tuần đến 2 năm): một số bệnh nhân có thể có phản ứng Mantoux âm tính vì được làm cách xa nhiều năm sau khi bị nhiễm Mycobacterium tuberculosis, những người này có thể có phản ứng Mantoux làm lại sau đó dương tính vì xét nghiệm Mantoux lần đầu đã kích thích khả năng đáp ứng với test. Đó là hiện tượng Booster (là nhiễm lao tiềm ẩn đã lâu) đôi khi có thể làm phiên giải nhầm là sự chuyển đảo phản ứng da từ âm tính thành dương tính (là nhiễm lao gần đây).

Xét nghiệm đo sự phóng thích interferon gamma (IGRA)

Bảng 2. So sánh giữa các phương pháp chẩn đoán nhiễm lao tiềm ẩn

IGRA là xét nghiệm máu toàn phần, đo sự phóng thích interferon gamma từ tế bào bạch cầu khi trộn máu của bệnh nhân với các kháng nguyên chiết xuất từ vi khuẩn lao (ESAT-6, CFP-10; TB 7.7). Hiện nay có 2 loại xét nghiệm IGRA: QuantiFERON®-TB Gold In-Tube test (QFT-GIT) và T-SPOT®. TB test (T-Spot)

Có kết quả sau 24h. Không xảy ra dương tính giả sau tiêm BCG hoặc nhiễm vi khuẩn lao không điển hình. Không có hiện tượng Booster.

Bệnh phẩm máu sau lấy cần được xét nghiệm trong vòng 8h. Chưa có đủ thông tin về việc làm xét nghiệm này ở các đối tượng: trẻ dưới 5 tuổi, người mới phơi nhiễm lao, người suy giảm miễn dịch và những người được thực hiện lặp lại xét nghiệm này.

QFT – GIT đo nồng độ IFN – gamma, cho kết quả: âm tính, dương tính, không xác định.

T – spot đo số lượng tế bào lympho T được hoạt hóa giải phóng IFN-gamma, cho KQ: âm tính, dương tính, không xác định và nghi ngờ.

Kết quả IGRA có thể bị ảnh hưởng sau tiêm vaccine sống, vì vậy để tránh sai kết quả xét nghiệm, có thể xét nghiệm ngay trong ngày tiêm vaccine sống hoặc sau đó 4 đến 6 tuần, đối với chủng vaccine đậu mùa cần thực hiện xét nghiệm tối thiểu sau 1 tháng.

Lựa chọn test để sàng lọc nhiễm lao tiềm ẩn

Với những người có tiếp xúc với bệnh nhân lao hoạt động: IGRA hoặc Mantoux

Bệnh nhân suy giảm miễn dịch (HIV, điều trị corticoide liều cao kéo dài, điều trị ức chế TNF): Mantoux hoặc IGRA

Những người đã tiêm chủng BCG: IGRA

Những người có phơi nhiễm nghề nghiệp với lao: IGRA

Trẻ em dưới 5 tuổi: Mantoux

Việc làm đồng thời cả Mantoux và IGRA không được khuyến cáo một cách thường quy nhưng có thể có ích trong một số đối tượng nguy cơ cao nhiễm lao mà xét nghiệm lao lần đầu âm tính hoặc không phiên giải được kết quả.

H. Getahun, A. Matteelli, I. Abubakar và cộng sự (2024). Management of latent Mycobacterium tuberculosis infection: WHO guidelines for low tuberculosis burden countries. European Respiratory Journal, ERJ-01245-02024.

WHO (2024). Guidelines on the management of latent tuberculosis infection.

NICE (2024). National Institute for Health and Care Excellence (NICE) Tuberculosis [NG33], section 1.2.4 Managing latent TB in all age groups. January 2024.

C. C. Dobler, K. Cheung, J. Nguyen và cộng sự (2024). Risk of tuberculosis in patients with solid cancers and haematological malignancies: a systematic review and meta-analysis. European Respiratory Journal, 50 (2), 1700157.

D. L. Cohn, R. J. O’Brien, L. J. Geiter và cộng sự (2000). Targeted tuberculin testing and treatment of latent tuberculosis infection. MMWR Morb Mortal Wkly Rep, 49 (6), 1-54.